GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng là chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn (HST RNM). Ông là một trong những người sáng lập ra bộ môn nghiên cứu này ở Việt Nam và đã có những đóng góp to lớn trong việc khôi phục, bảo vệ và phát triển RNM.

GS-TSKH-NGND PHAN NGUYÊN HỒNG: NGƯỜI TIÊN PHONG
VÀ HẾT MÌNH VỚI HỆ SINH THÁI RỪNG NGẬP MẶN
GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng là chuyên gia đầu ngành về nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn (HST RNM). Ông là một trong những người sáng lập ra bộ môn nghiên cứu này ở Việt Nam và đã có những đóng góp to lớn trong việc khôi phục, bảo vệ và phát triển RNM.
Với những đóng góp của mình, ông đã vượt qua 131 ứng viên đến từ 25 nước trên thế giới, được Uỷ ban Giải thưởng Cosmos quốc tế (International Cosmos Prize) chọn trao giải thưởng năm 2008. Đây là giải thưởng lần thứ 16, được trao bởi Quỹ Expo 90 (Expo 90 Foundation) và ông là người Việt Nam đầu tiên được tặng Giải thưởng này. Dự kiến Lễ trao giải sẽ diễn ra tại thành phố Osaka (Nhật Bản) vào đầu tháng 11 tới. Ngoài Bằng khen và Huy chương, GS Phan Nguyên Hồng sẽ được nhận khoản tiền thưởng trị giá 40 triệu yên, tương đương khoảng 380.000 USD.
Lặng lẽ, đam mê nghiên cứu, luôn nỗ lực vượt qua khó khăn để tìm kiếm chân lý, bảo vệ quan điểm khoa học đến cùng trước những khó khăn, thách thức; khi thành công, không phô trương, không náo nhiệt... đó là vài nét phác thảo về chân dung GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng. ở tuổi 73, với thân hình nhỏ bé, có một chút khắc khổ nhưng ai đó có dịp tiếp xúc với ông sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước phong thái giản dị, sự miệt mài, đam mê và kiến thức uyên thâm của ông về các HST nói chung và HST RNM nói riêng. Đó cũng là những gì ông đã và đang cống hiến, giúp khôi phục nhiều vùng RNM đã bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, bảo tồn và phát triển HST rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này.
Từ sự tình cờ đến niềm đam mê nghiên cứu HST RNM
Năm 1954, khi cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta vừa giành thắng lợi, Phan Nguyên Hồng đã rời quê hương (xã Đức Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) tham gia đội thanh niên xung phong đi khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn; sau đó thi đỗ vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (khoá 1). Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công làm giáo viên Trường Sư phạm Trung cấp Trung ương (1956-1958) và từ tháng 8.1958, ông giảng dạy tại Bộ môn Thực vật học (tiền thân của Bộ môn Sinh thái học) thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
|
Vài nét về GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng:
Sinh ngày: 19.7.1935.
Quê quán: Xã Đức Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Một số vị trí công tác: Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu HST RNM (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội); nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (Đại học Quốc gia Hà Nội) - phụ trách Ban Nghiên cứu HST RNM (MERD); Phó Chủ tịch Hội sinh thái học Việt Nam; Uỷ viên BCH Hội Sinh học Việt Nam; Uỷ viên BCH Hiệp hội HST RNM quốc tế; Uỷ viên Hội đồng Tư vấn khoa học và công nghệ thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (Văn phòng 33).
Hoạt động nghiên cứu khoa học: 1970: Bảo vệ luận án Phó tiến sỹ (nay là Tiến sỹ); 1991: Bảo vệ luận án TSKH, được Nhà nước phong học hàm GS; từ 1980 đến nay: Chủ nhiệm 7 đề tài cấp nhà nước và 2 đề tài cấp bộ; tổ chức nhiều đợt truyền thông và tập huấn về bảo vệ RNM và HST đất ngập nước vùng ven biển; biên soạn 8 cuốn sách chuyên khảo liên quan đến tài nguyên, môi trường ven biển; chủ trì 8 hội thảo quốc gia về quản lý đất ngập nước ven biển và RNM; đăng tải hàng trăm công trình trên các tạp chí trong và ngoài nước
Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì; Huân chương Lao động (hạng Nhất và hạng Nhì); Danh hiệu Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, “Vì sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng, “Vì sự nghiệp phát triển nghề cá; Chiến sỹ thi đua toàn quốc (từ năm 1991 đến 1999); Giải thưởng xuất sắc về Bảo vệ môi trường năm 2005; Giải thưởng Cosmos quốc tế năm 2008.
|
Anh thi vào trường dược, nhưng trường này không có học bổng khuyến khích, mà gia đình ở mảnh đất nghèo khó, dù mừng lắm, muốn lắm cũng chẳng có gì gửi thêm cho con. Anh xin chuyển sang Đại học Sư phạm khoa Hóa – Sinh. Cứ như định mệnh đã an bài để đưa anh đến với màu xanh rừng mặn. Hơn hai năm dùi mài đèn sách, học cả hai mùa hè để sớm hết khóa, anh hoàn toàn sống nhờ suất học bổng ít ỏi Nhà nước cấp.
Ra trường, anh dạy hai năm ở trường Sư phạm Trung cấp Trung ương rồi về dạy ở khoa Sinh – Kỹ thuật nông nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ 1958 cho đến nay. 40 năm trên bục giảng đường, tính sao hết số học sinh, sinh viên đã nghe anh giảng bài, được anh hướng dẫn làm luận văn tốt nghiệp bảo vệ thành công các luận án cao học, thạc sĩ, PTS…Anh còn tham gia đào tạo 4 khóa ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư phạm Việt Bắc, bồi dưỡng cho cán bộ tại Đại học Cần Thơ.
Danh hiệu cao quý mà Nhà nước ta tặng anh: Nhà giáo ưu tú (1990), Nhà giáo Nhân dân (1996) thật xứng đáng với người thầy mẫu mực được nhiều thế hệ học trò quý trọng.
Nhưng Phan Nguyên Hồng không chỉ dạy chữ, dạy người. Anh còn là một nhà khoa học giỏi, làm chủ tịch và tham gia hàng chục đề tài khoa học cấp Nhà nước; là tác giả và đồng tác giả hơn 120 báo cáo và bài báo bằng tiếng Việt, tiếng Anh của trên 20 giáo trình và sách giáo khoa về sinh học, thực vật học, chủ yếu đi sâu rừng ngập mặn Việt Nam.
Phan Nguyên Hồng không ngừng nâng cao và trau dồi thêm kiến thức từ sách báo nước ngoài, từ các cuộc hội thảo chuyên ngành và từ thực tiễn điền dã, nghiên cứu điều tra ở rừng ở biển. Học thêm tiếng Anh, tiếng Pháp. Tình yêu thiên nhiên, vạn vật đến với anh ngày càng sâu nặng, đằm thắm. Anh gắn bó với cây rừng Việt Bắc từ những năm 60 rồi lặn lội trong rừng mặn ven biển Đông Bắc. Anh say mê các cây dâng, vẹt, sú, trang… vùng Quảng Ninh. Cái vốn phong phú ấy tạo điều kiện cho anh bảo vệ luận án phó tiến sĩ sinh học năm 1970. Miền Nam giải phóng, dù vừa qua một năm 6 lần vào viện, anh vẫn xin vào Nam Bộ làm thân với cây đước, cây dưng, cây bần, cây mắm. cây dừa nước… và bao sinh vật dưới bể, trên rừng của miền Minh Hải – Cà Mau – Bến Tre. Giúp các địa phương lập quy hoạch kinh tế rừng ngập mặn. Từ 1981 nhờ tham gia các đề tài thuộc chương trình Nhà nước về tài nguyên và môi trường, với trọng tâm nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn, hậu quả chiến tranh hóa học với rừng ngập mặn Minh Hải, sử dụng hợp lý hệ sinh thái rừng ngập mặn để nuôi tôm, chống phá rừng mặn bừa bãi. Anh đã trở thành nhà nghiên cứu đầu tiên có hệ thống rừng ngập mặn và là chuyên gia đầu ngành trên lĩnh vực này của nước ta. Năm 1991, anh bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ đầu tiên của ngành sinh học Việt Nam ở trong nước với đề tài “sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn Việt Nam”. Đây là luận án tiến sĩ thứ 10 được thực hiện ở trong nước. Nhà nước ta phong tiếp học hàm giáo sư cho anh.
Tiếp xúc với nhà trí thức dáng người nhỏ bé, gầy yếu này, tôi không ngờ anh đã làm nổi nhiều việc đến thế. Mới xem qua “danh mục các công trình khoa học khoa Sinh – Kỹ thuật nông nghiệp” (1986 - 1996) của trường Đại học Sư phạm, đã thấy có 49 mục mang tên anh. Một chồng cao các báo cáo khoa học mà anh đã trình bày ở hơn 40 hội thảo quốc gia, quốc tế; kỷ niệm về 4 hội thảo quốc gia và quốc tế khác do anh chủ trì bằng tiếng Việt, tiếng Anh, bản in trong nước, bản in ở Nhật, ở Thái Lan… mới thấy được sức làm việc ghê gớm của anh. Tôi rất mê tập tranh mang tính giáo cụ trực quan, sách giáo khoa cho các trường PTCS vùng ven biển, bộ phim đèn chiếu và tập sách truyền bá phổ cập về “Rừng ngập mặn”, sinh động, hấp dẫn. Làm được việc này, anh đã tranh thủ được sự tín nhiệm để các tổ chức phi chính phủ của nhiều nước tài trợ.
Nếu không được Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm cho biết, tôi đâu hay ở số 91 Nguyễn Khuyến này lại có một “Trung tâm nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn” trực thuộc trường, do anh làm giám đốc. Anh cho biết cơ sở mới sáp nhập vào Trung tâm tài nguyên và môi trường, trước đây giáo sư Võ Quý làm giám đốc. Phan Nguyên Hồng được cử làm Phó giám đốc, phụ trách nhánh rừng ngập mặn. Anh còn là thành viên của nhiều tổ chức khoa học; phó chủ tịch hội sinh thái học Việt Nam, ủy viên BCH Tổng hội sinh học, ủy viên HĐKH Bộ giáo dục và đào tạo, trường ĐHSP, ĐHQG Hà Nội, Ủy ban quốc gia về chiến tranh hóa học ở Việt Nam, Hội sinh thái rừng ngập mặn quốc tế… Thấy tôi ngắm căn phòng nhỏ bé ấm cúng, sách quý hơn đồ dùng, anh cười, ngoài băm lăm tôi mới lập gia đình. Nhà tôi là Ngô Kim Thu dạy ở PTCS Tô Vĩnh Diện. Chúng tôi quen nhau ở lớp đại học hàm thụ. Cô ấy học, tôi giảng, rồi nên vợ chồng. Cháu gái đầu lòng đẻ ở nhà hộ sinh Thổ Quan cái đêm bom B52 rải thảm phố Khâm Thiên, nay cháu dạy tiếng Anh ở trường Amxtecdam. Về nhà, cháu còn giúp bố sửa lại các bản dịch tiếng Anh. Cháu trai sinh sáu năm sau vừa vào đại học Ngoại thương.
Đã lục tuần nhưng nhà giáo, người Đảng viên Phan Nguyên Hồng vẫn sôi nổi, hào hứng, đã bập vào chuyện rừng ngập mặn là dứt không ra. Tôi bỗng thấy phía sau anh, một tấm thảm xanh mơ ước bao dọc vùng biển lượn cong hình chữ S trên bản đồ Tổ quốc.
GIANG QUÂN
GS-TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng, quê xã Đức Vĩnh là học sinh Liên Việt khoá I . Hiện ông là Phó giám đốc trung tâm Tài nguyên môi trường, phó chủ tịch Hội đồng chức danh quốc gia. GS vừa tặng UBND xã Đức Vĩnh 100 triệu đồng trích từ giải thưởng COSMOS. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế.
"Tôi trưởng thành từ nhân dân"
Lao Động Cuối tuần số 02 Ngày 11/01/2009
Cập nhật: 7:32 AM, 11/01/2009
 |
| Giáo sư Phan Nguyên Hồng. |
(LĐCT) - Sau 15 năm ra đời và phát triển của giải thưởng quốc tế Cosmos do Quỹ Expo'90 của Nhật Bản trao tặng đã có nhà khoa học Việt Nam đầu tiên vinh dự được nhận giải thưởng quý, trị giá gần 400 nghìn USD.
Đó là GS.TSKH-NGND Phan Nguyên Hồng (75 tuổi) hiện đang công tác tại Trung tâm Nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) trường Đại học Sư phạm Hà Nội. GS Phan Nguyên Hồng gần như đã dành trọn cả cuộc đời mình cho sự nghiệp nghiên cứu về hệ sinh thái RNM. Ông kịch liệt phản đối việc tàn phá RNM để nuôi tôm làm cho môi trường ven biển bị suy thoái trầm trọng.
Tôi ghé thăm GS Phan Nguyên Hồng trong một ngày áp Tết Kỷ Sửu mưa lạnh. Vị giáo sư khả kính vừa mở cổng đón khách vừa nói: "Thực sự, nếu một mình tôi sẽ không bao giờ làm được những công trình khoa học quan trọng như đã công bố. Tôi trưởng thành là nhờ sự giúp đỡ của tập thể, cộng đồng và nhân dân ven biển. Không có dân không thể nào có được những kiến thức thực tế.
Có lần 9 người trong đoàn cả nam nữ ở nhờ trong căn hộ vẻn vẹn 20m2 của gia đình anh Tám Sơn, tỉnh Minh Hải cũ, vợ chồng anh ấy nhiệt tình lắm, làm tôi nhớ mãi". Năm 1956, Phan Nguyên Hồng tốt nghiệp Trường ĐHSP HN. Năm 1958, ông về công tác tại bộ môn Thực vật học, khoa Sinh học của Trường ĐHSP HN cho đến ngày về hưu khi tròn 72 tuổi.
Giáo sư đã bị "sốc" khi phải chứng kiến cảnh người dân đốn chặt RNM một cách vô tội vạ vào những năm 60 thế kỷ trước ở Quảng Ninh?
- Năm 1964, ông Nguyễn Thọ Chân - Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ninh đề nghị Trường ĐHSP HN cử đoàn cán bộ khoa học xuống giúp tỉnh làm quy hoạch phân vùng kinh tế tự nhiên. Chúng tôi về nghiên cứu trong gần 1 năm và thấy ở đây có những loài cây sống ven biển rất đặc biệt mà người dân gọi là bãi sú, vẹt. Sự thích nghi của thực vật với môi trường nước lợ tạo điều kiện thuận lợi cho tôm, cua, cá, sò sinh sống và phát triển rất nhanh.
Thời gian đó Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, khoa Sinh phải sơ tán lên Thái Nguyên. Tuy nhiên tôi vẫn quyết tâm thực hiện ý định của mình nhưng vất vả lắm. Tôi nghĩ bộ đội họ đánh nhau ngoài mặt trận được thì tại sao mình không cố gắng! Khi ra đảo Đồng Rui, huyện Tiên Yên (Quảng Ninh), tôi thấy bà con thu hoạch được rất nhiều tôm cá, cua... từ khu vực RNM. Nhưng bên cạnh đó người dân lại chặt cây sú, vẹt mang về làm củi xếp đầy cả gian nhà không chỉ để đun mà còn để sưởi ấm mùa rét, tôi rất tiếc.
Tôi nhận định, RNM và hải sản có một mối liên quan rất chặt chẽ. Các cây sống ở đây đặc biệt thích nghi với điều kiện môi trường lầy mặn, ngập nước triều định kỳ, có cây cao đến 10-15m, đó là điều làm tôi ngạc nhiên, cần phải nghiên cứu.