Chiều ngày 08/12/2025, Viện Khoa học Tự nhiên – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức seminar “Một số giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu và công bố khoa học của giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội”.
Seminar hướng tới xây dựng một diễn đàn cởi mở để các nhà khoa học cùng phân tích thực trạng, chia sẻ kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp thiết thực, đột phá, góp phần hỗ trợ giảng viên phát huy tiềm năng nghiên cứu, qua đó nâng cao số lượng và đặc biệt là chất lượng các công trình công bố trên các tạp chí uy tín trong nước và quốc tế.
Tham dự seminar có các khách mời: GS.TS. Lê Anh Tuấn – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nano, Trường Kỹ thuật, Đại học Phenikaa; PGS.TS. Trần Thị Ngọc Quyên – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sáng tạo, Trường Đại học Ngoại thương. Về phía Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, seminar có sự tham gia của GS.TS. Nguyễn Văn Minh – Chủ tịch Hội đồng Khoa học Trường; PGS.TS. Dương Minh Lam – Trưởng phòng Khoa học Công nghệ; TS. Trần Bá Trình – Trưởng phòng Đào tạo; TS. Trần Lệ Thu – Phụ trách Viện Khoa học Xã hội; PGS.TS. Nguyễn Văn Biên – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nghiệp vụ sư phạm; TS. Nguyễn Quốc Trị – Hiệu phó Trường Khoa học Giáo dục, TS. Nguyễn Duy Nhiên, Trưởng khoa Triết học, GS.TS. Đặng Ngọc Quang – Trưởng Khoa Hóa học, GS.TS. Lục Huy Hoàng – Viện trưởng Viện Khoa học Tự nhiên cùng đông đảo giảng viên, học viên và sinh viên các khoa.
Mở đầu seminar, GS.TS. Lục Huy Hoàng – Viện trưởng Viện Khoa học Tự nhiên nhấn mạnh đây là dịp để Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhìn lại bức tranh nghiên cứu và công bố khoa học một cách hệ thống, có đối sánh; đồng thời cùng thảo luận các giải pháp theo tinh thần “làm thật – làm được – làm bền”, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công bố trong bối cảnh cạnh tranh học thuật ngày càng gia tăng và nguồn lực nghiên cứu còn nhiều ràng buộc.
Trong phần trình bày chuyên đề, GS.TS. Nguyễn Văn Minh đã đưa ra nhiều dẫn liệu nhằm đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường. Báo cáo ghi nhận hoạt động công bố của Trường thuộc nhóm có số lượng cao trong nước, song chất lượng và tầm ảnh hưởng vẫn là thách thức đáng chú ý. Một số phân tích cho thấy số lượng bài tổng quan còn ít, mức trích dẫn chưa cao, phản ánh mức độ lan tỏa của công bố chưa tương xứng. Ở bình diện lĩnh vực, Khoa học xã hội của Việt Nam có nhiều công bố trong nước nhưng chưa tiếp cận mạnh với hệ thống học thuật quốc tế, trong khi các ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật hội nhập tốt hơn. Báo cáo cũng đặt ra vấn đề về định mức giờ giảng của giảng viên ở Việt Nam còn khác biệt so với một số quốc gia như Singapore, Mỹ và Úc, tạo áp lực không nhỏ cho việc phân bổ thời gian nghiên cứu. Bên cạnh đó, công bố khoa học còn có xu hướng nhỏ lẻ, tập trung vào các chủ đề hẹp, lặp lại, thiếu tính tổng thể và chưa theo kịp thiên hướng chung của thế giới – nơi nghiên cứu ngày càng hướng tới giải quyết các vấn đề lớn, mang tính xu hướng và liên ngành. Thực trạng này gắn với khó khăn trong hợp tác, sự thiếu vắng các nhóm nghiên cứu theo “trường phái”, và nhu cầu tăng cường hỗ trợ, dẫn dắt lực lượng kế cận. Từ đó, GS.TS. Nguyễn Văn Minh nhấn mạnh yêu cầu phải trả lời rõ câu hỏi “Nghiên cứu để làm gì?”, đồng thời chuyển dịch mạnh sang phương pháp nghiên cứu mang tính tổng thể – liên ngành. Theo GS, hợp tác là chìa khóa, cần liên kết nhiều đơn vị, mở rộng mạng lưới trong nước và quốc tế; đồng thời tập trung vào vấn đề cốt lõi, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững và xu hướng chung của thế giới. Về chính sách, báo cáo đề xuất nhìn nhận đúng vai trò của giảng viên vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, coi trọng chất lượng (đặc biệt là trích dẫn và ảnh hưởng học thuật) hơn số lượng, và tăng cường hỗ trợ cho cao học, nghiên cứu sinh – lực lượng nghiên cứu quan trọng.
Trong khuôn khổ seminar, GS.TS. Lê Anh Tuấn – người có 12 năm kinh nghiệm nghiên cứu tại Đại học Bách khoa Hà Nội và 6 năm tại Đại học Phenikaa – đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tiễn về mô hình quản lý và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh. Theo GS, tại Đại học Phenikaa, hoạt động nghiên cứu được tổ chức bài bản với hệ thống 100 phòng thí nghiệm (đào tạo và nghiên cứu) cùng 32 nhóm nghiên cứu, gồm 12 nhóm nghiên cứu mạnh và 20 nhóm tiềm năng. Các nhóm nghiên cứu đóng vai trò “hạt nhân” trong hình thành trường phái nghiên cứu, gắn kết thương hiệu nhà trường, nâng cao giá trị đào tạo và đáp ứng các tiêu chuẩn xếp hạng quốc tế. Để đảm bảo chất lượng, các nhóm được đánh giá theo hệ thống tiêu chí/điểm quy đổi chặt chẽ, kèm yêu cầu cụ thể về đầu vào – đầu ra.
GS.TS. Lê Anh Tuấn nhấn mạnh các yếu tố then chốt tạo nên hiệu quả vận hành nhóm nằm ở các chính sách hỗ trợ thiết thực và linh hoạt của Nhà trường, gồm: tài chính và cơ sở vật chất (hỗ trợ xây dựng phòng nghiên cứu theo đề xuất của nhóm, tập trung thiết bị chuyên dụng phục vụ nghiên cứu); nhân lực và đãi ngộ (cơ chế lương thưởng hấp dẫn, cam kết tuyển dụng và học bổng cho cao học, nghiên cứu sinh, postdoc; trong đó postdoc được tạo điều kiện tham gia trợ giảng và hướng dẫn thực hành); và môi trường làm việc (tôn trọng tự do học thuật, vinh danh – khen thưởng kịp thời, hỗ trợ kinh phí “khởi động” cho nhóm mới). Bài tham luận cũng chỉ ra cách tối ưu hiệu suất thông qua chuẩn hóa quy trình và quản trị theo mục tiêu (KPI). Với nghiên cứu cơ bản, trọng tâm là năng suất và hiệu quả công bố quốc tế, sở hữu trí tuệ và xây dựng môi trường sáng tạo cho thế hệ kế cận. Với nghiên cứu ứng dụng, GS đề xuất phương pháp “tư duy ngược”: xuất phát từ bài toán thực tế của doanh nghiệp để nghiên cứu giải quyết vấn đề; tránh “bẫy vòng lặp” khi gặp khó khăn thì quay đầu; tăng cường phối hợp chặt chẽ với kỹ sư, nhà quản lý doanh nghiệp và đảm bảo lộ trình thương mại hóa rõ ràng.
Phần thảo luận diễn ra sôi nổi, tập trung làm rõ thêm các thách thức và giải pháp cho các trường đại học công lập. Nhiều ý kiến nhấn mạnh khó khăn trong chuyển giao công nghệ, đặc biệt là việc thuyết phục doanh nghiệp dám đầu tư cho R&D. Về chính sách tạo động lực, các đại biểu cho rằng ngoài chế độ lương thưởng xứng đáng, cần có cơ chế phân công nhiệm vụ linh hoạt theo thế mạnh của giảng viên (giảng dạy – nghiên cứu), hệ số quy đổi công bằng, tránh cào bằng giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; đồng thời duy trì môi trường tôn trọng tự do học thuật. Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh được nhìn nhận như lực lượng lao động nghiên cứu quan trọng, cần được đầu tư và hỗ trợ tương xứng.
Kết thúc seminar, GS.TS. Lục Huy Hoàng nhấn mạnh, buổi seminar đã góp phần làm rõ bức tranh nghiên cứu- công bố của Trường trong tương quan hệ thống, đồng thời nhận diện các “nút thắt” cần tháo gỡ như lựa chọn hướng ưu tiên, tăng cường phối hợp liên ngành, chuẩn hóa quy trình học thuật và tối ưu nguồn lực. Những kinh nghiệm từ mô hình NEB Lab cũng gợi mở cách tiếp cận phát triển nhóm nghiên cứu theo hệ sinh thái đồng bộ, gắn mục tiêu – con người – quy trình với cơ chế khuyến khích và kết nối nguồn lực. Trên cơ sở các trao đổi, các ý kiến sẽ được tổng hợp thành những đề xuất cụ thể gửi các bên liên quan qua đó góp phần xây dựng môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp và hiệu quả tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Một số hình ảnh của buổi seminar:

GS. TS. Nguyễn Văn Minh trình bày bài tham luận

GS. TS. Lê Anh Tuấn trình bày bài tham luận

Buổi thảo luận diễn ra sôi nổi

Ảnh chụp cùng các đại biểu tham dự Seminar
Viện Khoa học Tự nhiên